Trần Quốc Vượng
Nho giáo xưa và này (Vũ Khiêu chủ biên)- viện khoa học xã hội Việt Nam
***************************************
Khi tiếp xúc cưỡng bức với văn minh Pháp dưới dạng thực dân ở cuối thế kỷ XIX, nền văn minh Việt Nam truyền thống - mà “sợi dây liên kết” (để dùng lại một từ và một ý niệm của Ăng-ghen) là nhà nước quân chủ Nho giáo - đã tỏ ra bất lực. Thực ra, nói như Ức Trai:
Họa phúc hữu môi phi nhất nhật
Anh hùng di hận kỷ thiên niên.
(Họa phúc mối mầm không một chốc
Anh hùng để hận mấy ngàn năm).
Nền quân chủ Nho giáo cuối mùa từ lâu đã tỏ rõ là một mô hình chính trị - xã hội - văn hóa lỗi thời, kìm kẹp sự phát triển của sức sản xuất xã hội, cơ chế quan liêu ăn bám vào xã hội tiểu nông khư khư giữ lấy những giáo điều Tống Nho, vừa mang tính ngoại sinh, vừa mang tính lạc hậu.
Nếu ở Trung Hoa – Tổ quốc của Nho giáo - qua những biến thiên lịch sử và biến động xã hội; hệ tư tưởng Nho cũng còn có những triển chuyển về hình thức (và cả nội dung nữa) từ Nho Khổng cuối Xuân Thu, Nho Mạnh thời Chiến quốc, rồi Hán Nho, rồi Tống Nho (mà phương Tây hay gọi là “Nho giáo mới” (néo-confucianisme) vượt qua triều đại ngoại tộc “Mông-nguyên” cũng còn chút sức lực để lột xác một lần nữa thành Minh Nho (với Vương Dương Minh chẳng hạn), thì cái hệ tư tưởng Nho giáo mà tầng lớp thống trị Đại Việt qua các triều đại đã vay mượn của Trung Hoa ấy đã tỏ ra trì trệ ở Tống Nho, ít ra cũng từ thế kỷ XV.
Theo ý tôi, cái bi kịch tảng nền của xã hội Việt Nam cổ truyền là chưa bao giờ tầng lớp thống trị - mà trước đây giới sử học cứ tạm gán cho nó cái nhãn “phong kiến - địa chủ” - có đủ sức mạnh tinh thần để sáng tạo nổi một hệ tư tưởng riêng, độc lập, xứng hợp với tầm vóc của một nhân dân - dân tộc (Nation-peuple) rất đỗi anh hùng và thích sống riêng ngoài cõi bờ - nhưng luôn luôn ở bên rìa - của một đế chế Trung Hoa rộng lớn...
Cứ lấy cái mốc lịch sử thế kỷ XV cho tiện bình giải. Nếu sức mạnh toàn dân, toàn dân tộc hội đủ và kết tinh ở cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và phát triển thành chiến tranh giải phóng dân tộc, sau 10 năm (1418-1427) đủ quật đổ ách thống trị Minh thuộc, trung hưng lại quốc gia Đại Việt một lần nữa (ông tổ dựng nước: các Vua Hùng; ông tổ trung hưng I: Ngô Quyền (938); ông tổ trung hưng II: Lê Lợi (1427);) thì bộ tổng chỉ huy Lam Sơn do Bình Định Vương đứng đầu ấy, sau đại thắng Chi Lăng - Đông Quan, tự tổ chức thành “nhà Lê” thành nền quân chủ Đại Việt mới phục hưng ấy, lại hữu thức tuyên bố lấy Tống Nho làm quốc giáo, lấy “Cửa Khổng Sân Trình” làm miếu đình thiêng liêng, lấy Tứ thư Ngũ kinh làm hệ qui chiếu của tư duy, lấy thi cử kiểu Nho làm phương thức đào tạo nhân tài quốc gia.
Không có sáng tạo, chỉ có vay mượn; chỉ có áp dụng; chỉ có thích nghi. Đó là sự thực của lịch sử tư tưởng chính thống Đại Việt.
Có không ít người bảo: Đó là điều tất nhiên thôi. Thì cứ cho là “tất nhiên” đi. Là một “tất yếu lịch sử”? Có thể lắm. Thì cũng phải giải trình cái “tất nhiên” ,”tất yếu” ấy ra chứ!
K.Mác bảo: “Những ý niệm thống trị một thời đại là những ý niệm của giai tầng thống trị”.
Cái giai tầng thống trị Đại Việt-Việt Nam từ thế kỷ XV trên thế kỷ XIX (địa chủ và nông dân quan liêu hóa và “học làm sang”) cho dù có một lúc nào đó khá mạnh về chính trị-quân sự thì, theo tôi, bao giờ cũng là “tiên thiên bất túc”- tuy có thể “hậu thiên năng nghi” chứ không đến nỗi “hậu thiên bất nghi”! - về mặt tâm linh và nói thẳng ra là còi cọc về mặt hệ tư tưởng hay tín ngưỡng dân gian không ngoài Lễ nghi nông nghiệp. Đó là cái mặt bằng nội sinh để Nho giáo và các tôn giáo lớn ngoại sinh khác tràn vào và bám rễ sinh sôi.
Nói về Lê Lợi và nhà Lê có ý định độc tôn Tống Nho, phải chăng ta có thể nói rằng “Sau thắng lợi lớn về quân sự là thất bại lớn “về tinh thần”?
Vì dù sao, trước thời Minh thuộc, các vua Trần chẳng hạn, qua cửa miệng những Minh tông, Nghệ Tông... đã nêu cao khẩu hiệu “Không mô phỏng Đường Tống” "Quốc gia xây dựng, tự có pháp độ riêng”. Đến quan đại Tư đồ Trần Nguyên Đán, trong một bài thơ xướng họa ở trường thi đã viết:
Hán Đường nhị Tống hựu Nguyên Minh.
Lệ thiết từ khoa tuyến tuấn anh.
Hà tự thánh triệu cầu tự học,
Đương tri vạn thế tuyệt cơ bình.
(Hán, Đường, hai Tống đến Nguyên Minh
Lệ mở khoa thi chọn tuấn anh.
Sao giống triều ta cầu thực học
Cho muôn đời dứt tiếng chê bình).
Hẳn đó là những “gien” di truyền văn hóa để, trong “Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi cất cao giọng đọc tuyên ngôn độc lập cả về chính trị
Sơn xuyên chi phong vực ký thù
(Cõi bờ sông núi đã riêng)cả về văn hóa:
(phong tục Việt Hoa cũng khác)
(Nhưng một cánh én Ức Trai không đủ làm nên một mùa xuân văn hóa cung đình Hậu Lê – Cả triều đình càng ngày càng có xu hướng mô phỏng Trung Hoa, từ lễ nhạc đến phẩm phục và sân khấu cung đình. Và tôn Tống Nho lên hàng quốc giáo, với ý định độc chuyên).
Trước đó nữa, thì các vua Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần thường sùng Phật, đến mức ta có thể mệnh danh chế độ Đại Việt từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV là nền Quân chủ Phật giáo để phân biệt với chế độ các vua Lê - Nguyễn từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX sùng Nho, mà ta có thể gọi là nền Quân chủ Nho giáo.
Cố nhiên, trước hay sau thế kỷ XV thì trên cơ địa Đại Việt này cũng chẳng có một “Giáo” nào được độc tôn trên thực tế. Người ta bảo rằng dưới thời Lý Trần, là tình trạng “Tam giáo (Phật, Lão, Nho) đồng nguyên” hay “Tam giáo tịnh hành”, ngoài biết bao đền miếu khác của tín ngưỡng dân gian. Và cho dù triều Lê Thánh Tông - thường được sĩ phu đời sau khen là “minh quân lương tướng” (vua sáng tôi hiền) - đã ra lệnh cấm xây chùa mới (để đình và văn chỉ ngày càng mọc lên nhiều), chỉ cho phép sửa chữa chùa cũ, thì như một “đối trọng” và “siêu bù trừ”, các bà phi Lê- Mạc- Trịnh lại rất thường hay đứng ra làm “hội chủ” hưng công dựng chùa mới và sửa chùa cũ thêm nguy nga tráng lệ. Sự hỗn dung (hợp dung) tôn giáo (syncrétione religicux) hay sự khoan dung (Générosité) hay khuynh hướng dung hoà tư tưởng và tôn giáo chắc chắn là một bản tính của tâm thức Việt
Ở quãng giữa hai triều đại Lê- Nguyễn của nền Quân chủ Nho giáo, là triều đại Tây Sơn ngắn ngủi mà có người ca ngợi là “đổi mới” thậm chí là “Cách.mạng” nữa...
Comments