Tôi không phải là chuyên gia về Tây Sơn học, nhưng tôi biết chắc rằng anh em Tây Sơn có lệnh ở mỗi tổng huyện chỉ để một chùa và trong thư gửi La Sơn phu tử,Quang Trung khẳng định dứt khoát nền quốc học khi ấy vẫn là “nền học của Chu Tử” (tức Chu Hi – Tống Nho) và sách dịch ra chữ Nôm của “Sùng chính thư viện” do Sơn phu tử được cử làm Viện trưởng cũng vẫn quanh đi quẩn lại là Tứ thư, Ngũ kinh. Triều Tây Sơn vẫn chỉ là một triều quân chủ Nho giáo không hơn không kém.Và đến triều Cảnh Thịnh thì quân dân lại đua nhau sửa chùa, đúc chuông, như một xu thế dân gian không cưỡng được của thời “chiến hậu”.
Trong một bài viết đầu năm nay trên tạp chí Sông Hương tôi đã bình luận rằng việc Quang Trung sùng thượng Tống Nho và Chu Tử là một điểm lạc hậu bảo thủ của Ngài, so với Hồ Quý Ly ở 4 thế kỷ trước chẳng hạn:
Cuối thế kỷ XIV, nhà cải cách và đổi mới Hồ Quý Ly đã dám nêu “Bốn nghi ngờ” trong hành trạng đức Khổng Tử, không muốn coi ông là “tiên thánh” để được thờ ở chính điện Văn Miếu mà chỉ xem ông là “tiên sư” để thờ ở gian phía Đông, nhường địa vị cũ cho Chu Công - nhà hoạt động thực tế đầu thời Chu. Hồ Quy Ly lại càng xem rẻ .Tống Nho và các bậc đại nho thời Tống như Chu Hi, Trình Hạo... gọi họ là “đạo nho” (nhà nho ăn trộm), học thì rộng nhưng tài thì sơ, chuyên nghề lột cắp văn chương, tư tưởng...
Tôi nghĩ ông Hồ là người chuộng thực tế và việc làm thiết thực, ông không ưa sự “không đàm khoát luận” Của Tống Nho Chu - Trình. Ông cũng không ưa gì - cái tổ chức Phật giáo Đại Việt cuối đời Trần sau một thời gian dài được triều đình và quý tộc quá “o bế”, tặng cho quá nhiều “ruộng đất và điền nô” để xây dựng những “đại danh lam, tiểu danh lam”... nên đã trở nên “hủ hóa”. Mọi người đều biết Hồ Quý Ly đã sai Đại-nam thiền sư cầm đạo quân thiền sư đi đánh Chiêm Thành để muốn mượn tay giặc ngoài giết chết bớt sư sãi. Cái biện pháp khắc bạo đó cố nhiên là “thất nhân tâm”. Khi còn sinh thời, có lần giáo sư Cao Xuân Huy bảo với tôi rằng, theo ý thầy, có lẽ về một tư tưởng - văn hóa, Hồ Quý Ly chịu ảnh hưởng của một phái Tống Nho khác miền Giang Triết, chủ trương thực dụng - thực tế hơn là phái siêu hình Trình-chu...
Cũng có người cho rằng cái gì Hồ Quý Ly không hay chưa làm được thì sau 10 năm chống Minh thắng lợi, Lê Lợi và nhà Lê đã làm được, nghĩa là về mặt kinh tế - xã hội, đập tan tập đoàn đại địa chủ có điền trang - thái ấp, thực hiện phép quân điền, tái công xã hóa làng - xã Đại Việt và về mặt văn hóa - tư tưởng, hạ uy thế hoàn toàn tập đoàn quốc sư-phật giáo, đưa Tống Nho lên ngôi chủ đạo về hệ tư tưởng Nhà nước - dân tộc (Etat-Nation)...
Với thời kỳ thịnh trị Lý - Trần, từ vua quan đến dân chúng đều sùng Phật, trọng Lão - và Nhà nước cũng bắt đầu sử dụng Nho giáo, tích hợp nho sĩ vào cơ chế hành chính - xã hội. Lý Thánh Tông là đệ tử thế hệ thứ nhất của thiền phái Thảo Đường nhưng chính vị vua này đã sai xây Văn Miếu thờ Khổng tử. Và vợ ông là bà Ỷ Lan và con ông là vua Nhân Tông là người đầu tiên mở khoa thi Nho giáo để tuyển nhân tài.Vua Lý hay đi xem gặt và hay giảm tô thuế cho dân. Có người bảo: “Thế lấy gì để đơm xôi cúng xã tắc”: Vua bảo: “Dân no đủ thì Trẫm cũng no đủ, nào có lo gì!”. Đấy đúng là “mô phỏng” một câu “chữ liền” trong Luận ngữ, chỉ khác là đổi một câu phủ định thành câu khẳng định: “Bách tính bất túc, quân thục dữ túc?” (Trăm họ không đủ ăn thì vua đủ ăn với ai?). Đấy chỉ là lấy một ví dụ tôi sẵn nhớ và ghi để chứng minh rằng: Trong đầu óc mỗi ông vua Lý sùng Phật cũng đã dung hợp ít giáo lý của Khổng Mạnh. Tôi xin lấy một ví dụ khác vừa mới chợt tìm hiểu ra. Vùng Phù Đổng- Tiên Du- Kinh Bắc- có sẵn một huyền thoại nội sinh nào đó về một đứa trẻ ăn nhiều cơm gạo và trở thành Người khổng lồ (Huyền thoại này cũng có ở một vài hải đảo Inđônêxia có tảng nền kinh tế chung như châu thổ Nhị hà là nghề nông trồng và tảng nền xã hội chung là chế độ mẫu hệ “có mẹ, không có cha”.Rồi đến thời Lý - Trần, người ta đọc được ở trong Kinh thi, Kinh thư và các kinh điển Nho giáo khác những huyền tích về mẹ ông Nghiêu ông Thuận hợp với rồng đỏ mà đẻ, bà Hoa Lư dẫm phải dấu chân người to lớn ở Lôi Trạch rồi sinh ra Phục Hi, bà Khương Nguyên dẵm vào vết chân thần, thấy tâm động, bụng lớn dần, có mang và đẻ ra ông Hậu Tắc v.v.. Thế là những tác giả Việt điện u linh, Lĩnh nam chích quai..., xào xáo các huyền thoại nội sinh và huyền tích ngoại sinh đó lại rồi trên cái nền kháng chiến chống Tống – chống Nguyên đương đại mà tạo ra một huyền tích Phù Đổng thiên vương đánh giặc Ân như ta đã biết.
Cho nên học giả Lý Trần có đọc kỹ Thi Thư... đi nữa thì cũng chẳng thuần Nho: “Quỷ thần kính nhi viễn chi” “bất ngữ: Quái, lực, loạn, thần...” (Đức phu tử không nói chuyện quái dị, loạn, thần thánh...) Thờ “Thần” là một đường hướng tôn giáo chính của dân Việt. Cũng vậy, khi một ông vua Trần sùng Phật là dẫn dụ một câu của Đạo đức kinh “hòa quang đồng trần” (Hòa ánh sáng với bụi bẩn)- câu này là triết lý chính trị, triết lý-sống đời của nhà Trần) thì ta cũng hiểu vua - và dân - Việt rất có khuynh hướng dung hợp mọi điều mà mình cho là hay là hợp dù nó đến từ những ngả đường tư tưởng văn hóa khác nhau... để trau dồi nên cái bản sắc dung hợp, khoan hòa của nền văn hóa Việt Nam ...
Sau 100 năm (1427 - 1528) có vẻ quá thiên Nho của các vua nhà Lê sơ- nó bắt đầu tạo nên tình trạng nhị phân văn hóa giữa cung đình và dân gian- nhà Mạc, xuất thân dân chài phóng khoáng và phóng túng như nhà Trần, lại lên ngôi nhân chủ và tuy vẫn sùng Nho hay ra vẻ sùng Nho-nhưng rõ ràng xã hội được cởi mở hơn về tư tưởng - văn hóa. Giới khảo cổ nghệ thuật Việt
Một lần nữa, cái dân gian (hay “dân tộc - nhân dân”) lại “điều chỉnh lại cái chính thống (hay “dân tộc-nhà nước”) mềm hóa cái độc chuyên Nho bằng cái đa dạng Phật- Lão- Nho và tín ngưỡng dân gian. Nguyễn Bỉnh Khiêm là trạng nguyên Nho, Trình Quốc Công của nhà Mạc (Trạng Trình) mà đâu có thuần Nho với “sấm ký” của Bạch Vân am và Bạch Vân cư sĩ? Thực ra thì ngay trên ông vua Lê Thánh Tông mà người đời và giới sĩ phu cứ hay bào là “độc tôn Nho giáo” (hẳn là hữu thức thôi, “mẹo chính trị” thế thôi) chứ chỉ với những huyền tích về ông ở Thăng Long - nào khi bé ở chùa Huy Văn (phố Hàng Bột - Tôn Đức Thắng hiện nay); nào khi lớn và đỗ làm vua đã “gặp tiên” ở chùa Ngọc Hồ (phố Nguyễn Khuyến hiện nay) rồi tiên biến mất ở gần cửa Nam Đại Hưng để vua tiếc ngẩn ngơ và sai lập “quán vọng tiên” (Phố Hàng Bông hiện nay) thì, theo ý tôi, ông vua đứng đầu Tao Đàn ấy cũng chẳng thuần Nho tí nào... Ông vẫn là ông vua - vị đứng đầu rất oai vệ - của một nhân dân Việt
Nói gì đến những ông chúa Trịnh của Đàng ngoài, cứ “ba năm chúa mở khoa thi “Nho giáo, nhưng vẫn cứ rước tượng Phật ở chùa Pháp Vân ( (chùa dâu, Thuận Thành - Hà Bắc nay) về Thăng Long - đông kinh để cầu mưa hay cầu tạnh!
Nói gì đến những ông chúa Nguyễn ở Đàng Trong, cũng Nho đấy – mà có vẻ Minh Nho hơn Tống Nho – nhưng rước bao nhiêu thiền sư phái Lâm Tế của Quảng Đông sang Phú Xuyên truyền giáo (xem chẳng hạn thích Đại sán Hải Ngoại kỷ sự). Và là chúa sùng Nho nhưng lại tự xưng la “thiên túng đạo nhân” chi chi đó… thì – vãn như dân Việt thôi – chẳng có gì là thuần Nho cả…
Lạ lùng nhất đối với tôi, kẻ ngày trước cứ tin vào giới sử đồng nghiệp ghi ghi chép chép rằng các vua triều Nguyễn, đặc biệt là Minh Mạng “độc tôn Nho giáo” – Nhưng sau ngày giải phóng miền nam, lần đầu tiên được vào thăm thành nội Huế, tôi sửng sốt khi thấy cạnh ngay lầu son gác tía “trong nội” là ngôi chùa Phật và “điện Hòn Chén” nổi danh của xứ Huế hàng năm các đấng vương tôn công tử quý phi- cả vua nữa- đến thăm và dâng lễ lại là đền thờ Mẫu gốc Chăm pa: Thiên y a na! Rồi cũng chính ông Minh Mạng chứ ai đã vào thăm xứ Quảng, thăm các chùa - đền hang núi Non nước và đổi tên núi Non Nước này thành Ngũ – hành- sơn. “Đền ngũ hành” thờ chư vị tiên nữ phổ biến khắp xóm ấp miền Trung miền
Dẫn dụ đủ mọi chuyện linh tinh tản mạn, từ Lý Trần qua Lê- Mạc – Tây Sơn – Nguyễn, từ cung đình đến dân gian, tôi chỉ muốn đi đến cái kết luận tuy đơn sơ và giản dị này mà mấy chục năm qua đâu có dễ dàng gì lọt vào đầu óc và luận văn khoa học của mấy vị học giả đáng kính của ta; chưa từng bao giờ có tình trạng độc tôn Nho giáo trong đời sống văn hóa – tư tưởng Việt Nam lịch đại, cho dù là từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX!
Nói cho có vẻ mác xít thì trên cơ sở hạ tầng Nông Dân- Nông nghiệp- Xóm làng của Đại Việt – Việt Nam truyền thống, lại có một đất nước bán đảo ở giữa chốn giao thoa và giao lưu kinh tế - văn hóa Đông Tây Nam Bắc thì về mặt tôn giáo – tín ngưỡng – một thành phần cấu trúc đồng thời là sản phẩm của văn hóa nói chung – tâm thức người dân Việt là sự cởi mở, đa nguyên, đa dạng… có cái “duy lý” của Nho (duy lý kiểu kỹ thuật nông nghiệp phương Đông chứ không phải duy lý kiểu thương nghiệp phương Tây cũ và duy lý mới kiểu công nghiệp phương Tây từ thế kỷ XVIII đến nay); có cái “tâm linh” của Phật, có cái “siêu việt” của Lão Trang và có cả cái mê tín “thần ma” của căn tính tiểu nông…
Đây là “di sản truyền thống”, trước khi tiếp xúc với phương Tây...
Ngẫm nghĩ kỹ, tôi cho rằng, theo diễn trình lịch sử:
1. Thời đại các VUA HÙNG - hay thời đại văn hóa Đông sơn là thời đại xác lập mặt bằng của tư cảm Việt
2. Thời đại bắc thuộc Đạo Hoàng Lão (đạo giáo)- đạo thần tiên rồi và đạo Nho từ Trung Quốc du nhập. Đạo Phật từ Ấn Độ và từ Trung Hoa du nhập. Ảnh hưởng Ấn trung hòa ảnh hưởng Hoa. Đạo Phật được dân theo mạnh hơn Nho nhiều vì Nho theo Trung Hoa áp bức bóc lột mà vào còn Phật theo Ấn Độ buôn bán mà vào. Nho gia “Lễ” trị tức là đề cao trật tự vua –tôi, cha- con, chồng vợ.
Nho trọng Cha trong khi người Việt trọng Mẹ.
Nho trọng Chồng trong khi người Việt trọng Vợ.
Nho trọng Vua “tôn quân trong khi người Việt trọng Làng đại thống nhất”.
Người Việt bị ách thống trị Bắc bị ách thống trị Bắc thuộc nên mê say tinh thần Từ bi Bác ái, trọng Bố thí của Phật. Thế kỷ VI thủ lĩnh Việt “Lý súy” là Phật Tử chứ không là “thiên tử”, Lý Nam Đế-người Việt đầu tiên xưng Đế-lên ngôi xây ngay chùa Khai Quốc (chùa mở nước, sau là chùa Trấn quốc ở Hà nội nay) chứ không xây Văn Miếu.
Cuối Bắc thuộc, thiền sư dự báo và truyền bá tinh thần Độc Lập TỰ CHỦ chứ không phải là Nho sĩ.
3.Thời đại Độc Lập-tự chủ.
a) Thiền sư họp thành giới trí thức Việt đầu tiên, có ảnh hưởng lớn từ trong triều đến ngoài nội. Lạ một điều, Thiền – Tịnh - Mật của Phật giáo Lý Trần đều có tinh thần “nhập thế” có tác dụng chủ -khách quan là củng cố tinh thần DÂN TỘC. Từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV tạo thế chênh khác với Tống- Nguyên: Tống Nho/Việt Phật. Truyền thống cũ của người Việt được tích hợp vào chùa Phật chứ không vào miếu Nho. Sinh hoạt văn hóa, lễ hội chủ yếu diễn ra ở Chùa - Đền. Đã có nho sĩ từ đời lý, nhưng ban đầu làm “thư lại” sau mới có “đại thần”. Đã có nho sĩ Đàm Dĩ Mông bài Phật. Đến thời Trần, đặc biệt cuối Trần, thế lực nho sĩ dần mạnh hơn. Lê Văn Hưu, Lê Quát, Trương Hán Siêu bắt đầu công kích Phật. Lớp học trò Chu Văn An - như Phạm Sư Mạnh (dĩ Mạnh vi sư-lấy Mạnh Tử làm thầy) - đòi “cải cách” theo Trung Hoa nhưng thất bại.
b) Sang thời Lê, từ đây có hẳn một giới sĩ phu Nho giáo là cốt lõi của trí tuệ Đại Việt, ảnh hưởng mạnh tới triều đình rồi đến ngoài dân gian.
Comments