Skip to main content

First post using stackedit

Welcome to StackEdit! Hey! I’m your first Markdown document in StackEdit 1 . Don’t delete me, I’m very helpful! I can be recovered anyway in the Utils tab of the Settings dialog. Documents StackEdit stores your documents in your browser, which means all your documents are automatically saved locally and are accessible offline! Note: StackEdit is accessible offline after the application has been loaded for the first time. Your local documents are not shared between different browsers or computers. Clearing your browser’s data may delete all your local documents! Make sure your documents are synchronized with Google Drive or Dropbox (check out the Synchronization section). Create a document The document panel is accessible using the button in the navigation bar. You can create a new document by clicking New document in the document panel. Switch to another document All your local documents are listed in the document panel. You can switch from one to anoth

Siêu hình tình yêu - phần 2

Giờ ta hãy đi sâu vào vấn đề. - Lòng ích kỉ là một đặc tính thâm sâu của cá nhân con người, thâm sâu đến mức mỗi khi muốn thúc đẩy một cá nhân làm gì, chỉ có đưa ra những mục đích ích kỉ mới chắc chắn thúc đẩy nổi họ. Đành rằng đối với cá nhân chủng loại có một quyền hành cổ sơ hơn, thiết cận hơn và to lớn hơn là chính cái cá tính mong manh; tuy nhiên khi buộc cá nhân phải hao tâm tổn sức và còn phải hy sinh này khác để bảo tồn và duy trì cấu thể của chủng loại, trí tuệ của nó vốn dĩ chỉ thích ứng với những cứu cánh cá nhân, nên khó mà làm cho nó ý thức được tầm quan trọng của mục tiêu để cho nó hành động sao cho phù hợp với mục tiêu ấy. Vì thế cho nên, trong trường hợp này, muốn đạt được mục đích, thiên nhiên chỉ có cách nhồi cho cá nhân một ảo tưởng, theo đó cá nhân sẽ coi như là một điều lợi cho chính mình cái gì thực ra chỉ lợi cho chủng loại; như thế cá nhân sẽ phục vụ cho chủng loại mà tưởng đâu rằng phục vụ quyền lợi của chính mình, và nhờ thế mà một ảo ảnh biến ngay sau đó lại vẫn còn phảng phất trong đầu óc nó và trở thành một duyệ cớ thay thế cho thực tại. Ảo tưởng này là bản năng. Trong đại đa số các trường hợp, ta phải coi bản năng này như là ý thức chủng loại, nó giới thiệu với ý chí những gì có lợi cho chính nó. Nhưng, vì ở đây ý muốn bị cá biệt, nên nó bị lầm và tri giác qua sự trung gian của cá nhân, những gì mà ý thức chủng loại biểu thị cho nó, và do đó nó tưởng rằng mình theo đuổi các mục đích cá nhân, trong khi chính ra nó chỉ thực hiện những mục đích chủng loại (ở đây chữ này được dùng theo nghĩa đen). Ta thấy rõ được ngoại diện của bản năng hơn ở các thú vật, vì ở thú vật bản năng đóng một vai trò quan trong nhất; nhưng ta chỉ có thể tìm hiểu cơ cấu nội tại của bản năng ở ngay chính ta, cũng như mọi cái nội tại. Chắc ai cũng đồng ý rằng con người hầu như không có bản năng, ngoại trừ bản năng thúc đẩy đứa bé quơ lấy vú mẹ. Nhưng thật ra chúng ta có một bản năng rất chính xác, rất minh bạch và rất phức tạp là khác, nó điều khiển sự lựa chọn một các hết sức tế nhị, hết sức sang trọng và hết sức bền bỉ một cá nhân khác để thỏa mãn nhu cầu dục tính. Cái xấu hay cái đẹp của cá nhân kia không liên quan gì đến sự thỏa mãn ấy, nghĩa là sự khoái lạc nhục dục dựa vào một nhu cầu khẩn thiết của cá nhân.

Tuy nhiên, sự vội vã lo tìm thỏa mãn và sự lựa chọn hết sức ân cần đó quả không liên quan đến kẻ lựa chọn, dù rằng hắn tưởng thế, mà liên quan đến mục đích chính thực, đến cá thể được cấu sinh, cá thể mà ở nó tiêu thức chủng loại phải được lưu tồn sao cho thật thuần túy, thật chính cống. Thật vậy, hình dáng con người có nhiều nét quái dị do các ngẫu nhiên thể chất và các xung khắc tinh thần phát sinh, tuy nhiên tiêu thức thực sự của nó vẫn đầy đủ bộ phận; đó cũng do theo chỉ thị của mỹ cảm nó thường điều khiển bản năng chủng tính, và thiếu nó bản năng này chỉ còn là một nhu cầu ghê tởm. Vì thế cho nên thoạt đầu không ai không thích và thèm muốn một cách háo hức những cá nhân xinh đẹp nhất, nghĩa là những cá nhân mà ở đó nét đặc tính được biểu lộ thuần túy nhất; nhưng sau đó người ta lại đòi hỏi ở cá nhân kia nhất là những nét hoàn hảo mà chính người ta không có; người ta lại thấy là đẹp những khuyết điểm trái ngược với những khuyết điểm của chính mình; vì thế mà chẳng hạn những ông nhỏ thó lại thích các bà đẫy đà, các chàng tóc vàng lại ưa các nàng tóc nâu, v.v... Thái độ ngây ngất choáng váng của một người khi thấy một người đàn bà có vẻ đẹp tương ứng với bản chất của mình và ước ao được vầy duyên cá nước với người ta và cho đó là diễm phúc nhất của đời mình, đúng ra chỉ là ý thức chủng loại vì nhận ra cái dấu hiệu sắc nét của chủng loại nên muốn lưu tồn cái dấu hiệu ấy với người đàn bà kia. Sự bảo tồn tiêu thức đặc biệt dựa vào cái khuynh hướng chuộng mộ cái đẹp này; vì thế cho nên cái khuynh hướng này mới tác động mạnh mẽ như thế. - Rồi đây ta sẽ xem xét những lý do gì đã gợi hứng nó. Vậy cái gì, trong địa hạt này, hướng dẫn con người ta, cái đó đúng là một bản năng nhằm làm lợi cho chủng loại, trong khi con người ta tưởng đâu chỉ tìm gia tăng khoái lạc cho chính mình. - Thật ra đây là những điều chỉ dẫn cho ta biết về yếu tính của mọi bản năng, như trong trường hợp này, khi nào thúc đẩy cá nhân hành động có lợi cho chủng loại. Vì, thử xem một con côn trùng chịu khó đi tìm cho được một loại hoa nào đó, hay loại phân nào đó, hay loại thịt nào đó, hay như con tò vò đi tìm một loại bọ nào đó để đẻ trứng bất chấp hiểm nguy hay khó nhọc, thái độ của nó cũng giống đúc như thái độ của người đàn ông để thỏa mãn bản năng tính dục của mình cố lựa sao cho được một người đàn bà có một bản chất như thế nào đó, một bản chất tương ứng với bản chất mình, và tha thiết đi tìm đến nỗi để đạt mục đích, thường bất chấp mọi lẽ phải trái, lấy cho được để rồi khổ cả một đời, không từ mọi thủ đoạn có thể tiêu tan cả sự nghiệp, danh vọng, đời sống, dám phạm những tội ác như gian dâm và hiếp dâm, - tất cả chỉ vì, chỉ để phục vụ cho chủng loại bằng một cách thích hợp nhất và phù hợp với ý chí ngự trị khắp nơi của thiên nhiên, mặc dù làm thế là tai hại cho cá nhân. Thật vậy, đâu đâu bản năng cũng tác động như thể theo khái niệm của một cứu cánh, trong khi khái niệm không hề được đề ra. Khi mà cá nhân tác động không hiểu nổi mục đích của mình hay ngại ngùng theo đuổi mục đích ấy thì thiên nhiên đưa bản năng ra; vì vật mà theo thói thường, bản năng được gán cho các thú vật, nhất là cho các chủng loại thấp kém ít lý trí hơn cả; nhưng bản năng chỉ được gán cho con người trong cái trường hợp hiện đang cứu xét đây thôi, vì con người có thể hiểu mục đích, nhưng không theo đuổi mục đích với một mức tha thiết cần thiết, nghĩa là chưa hy sinh cái hạnh phúc riêng tư của mình. Vì vậy, cũng như mọi bản năng, chân lý ở đây mang hình thức ảo tưởng để ảnh hưởng ý chí. Chính một ảo ảnh khoái lạc đã lừa bịp người ta, khiến người ta tưởng rằng mình sẽ tìm thấy trong vòng tay của một người đàn bà mà sắc đẹp làm mình ưa thích, một khoái cảm lớn hơn là trong vòng tay của một người đàn bà khác; hoặc khiến người ta tin chắc rằng sự chiếm được một cá nhân độc nhất, mà chỉ mình chiếm độc quyền, sẽ đưa lai cho mình cái hạnh phúc tột độ. Rồi người ta tưởng đâu rằng mình đang vận dụng hết nỗ lực và hy sinh cho khoái lạc của riêng mình, trong khi tất cả sở dĩ xảy ra cũng chỉ là để lưu tồn tiêu thức bình thường của chủng loại, hoặc còn để cho ra đời một cá tính hoàn toàn xác định mà chỉ có đôi cha mẹ ấy mới cấu sinh được. Đặc tính của bản năng, nghĩa là một hoạt động hầu như lệ thuộc cho ý niệm về một cứu cánh trong khi cứu cánh thực sự không có, ở đây khẳng định rõ rệt đến nỗi kẻ bị ảo tưởng kia lôi cuốn thường cũng ghê tởm cái mục đích duy nhất lôi kéo nó, tức là sự cấu sinh, và muốn ngăn chặn không cho mục đích thực hiện: điều này được thấy trong tất cả các mối tình thầm lén. Theo đặc tính của tình yêu mô tả trên đây, sau khi đã được thỏa mãn tình yêu, người ta cảm thấy thất vọng lạ lùng và lấy làm lạ là chỉ tìm thấy trong sự chiếm hữu một khách thể mà người ta hằng khát khao thèm muốn chả có gì khác bất cứ mọi sự thỏa mãn tính dục nào, khiến người ta cảm thấy cũng chẳng được thêm gì hơn. Thật vậy, cái thèm khát này đối với mọi cái thèm khát khác của người ta cũng như chủng loại đối với cá nhân, do đó cũng như vô tận. Thật ra, sự thỏa mãn chỉ có lợi cho chủng loại, và vì thế không có thâm nhập ý thức của cá nhân vốn dĩ tác động theo ý chí của chủng loại, nên đã phục vụ bằng cách tự hy sinh cho một mục đích chẳng phải là mục đích của chính mình. Vì vậy mà sau khi hoàn tất đại công trình rồi, kẻ yêu cảm thấy mình bị lừa bịp, vì ảo ảnh đã biến mất, cái ảo ảnh nó làm cá nhân thành cái bung xung của chủng loại. Vì thế cho nên Platon đã rất đúng khi ông nói: Voluptas omniun maxime vaniloqua (Khoái lạc là huyễn hoặc hơn hết trong mọi sự).

Tuy nhiên, tất cả những điều trên đây giúp cho ta thấy rõ hơn về các bản năng và kỹ thuật của các giống thú. Dĩ nhiên chúng cũng bị nô lệ cho một ảo ảnh nó đề ra cho chúng một hình ảnh giả dối về sự thỏa mãn của chính chúng, khi chúng làm việc cho chủng loại rất đỗi hăng say đến tự quên mình; do đó con chim làm tổ, con côn trùng tìm đẻ trứng vào chỗ nào thuận tiện nhất hoặc săn mồi mà chính mình không ăn được; nhưng để đặt bên cạnh trứng làm thức ăn cho các con bọ sẽ ra đời, con ong, con vò vẽ, con kiến hết lòng xây cất tinh vi và phòng ngừa thu vén thật là chu đáo. Một ảo tưởng đã khoác lên sự phục vụ chủng loại cái mặt nạ của một ý định ích kỷ hẳn điều khiển chúng. Đó chắc chắn là con đường huy nhất cho ta nhận thức được quá trình nội tại hay chủ quan nằm tại nguồn các biểu thị của bản năng. Nhưng bề ngoài, hay khách quan, người ta nhận thất ở các con vật sự tuân phục bản năng nhất, một sự ưu thế trội hẳn của hệ thống hạch, tức là thần kinh hệ vốn dĩ chủ quan, đối với hệ thống khách quan hay não; do đó người ta có thể kết luận rằng các thú vật bị hướng dẫn không phải do các thẩm định khách quan và xác đáng, nhưng do các biểu tượng chủ quan phát sinh ra dục vọng, những biểu tượng chủ quan phát sinh do tác động của hệ thống hạch lên óc, do đó, chúng bị một ảo tưởng nào đó chi phối; đó là quá trình sinh lý của mọi bản năng.

Để chú giải cho các quan niệm này, tôi xin đề ra một tỷ dụ khác, mặc dầu kém minh xác hơn, về bản năng ở con người; đó là chứng ăn dở ở người đà bà có chửa; nguyên nhân của chứng này hầu như vì sự duy dưỡng bào thai, đôi khi đòi hỏi một sự thay đổi đặc biệt hay nhất định nào đó của cái máu huyết mà nó thụ nhận; nên cái thức ăn nó phát sinh ra sự thay đổi ấy tức thời thúc đẩy người đàn bà phải thèm khát nó; ở đây cũng lại là một ảo ảnh phát hiện. Do đó, người đàn bà có hơn người đàn ông một bản năng; vả lại, ở họ, hệ thống hạch cũng phát triển hơn. Khối óc con người vốn lơn, nên con người có ít bản năng hơn các thú vật và đã thế các bản năng ít ỏi ấy lại dễ lầm lẫn. Vì vậy mà mỹ cảm vốn là bản năng điều khiển sự lựa chọn khi cần thỏa mãn tính dục, có khi đi lầm đường và trở thành xu hướng đồng tính gian dâm. Trường hợp này cũng tương tự như trường hợp con nhặng xanh (musca vomitoria) thay vì đẻ trứng, theo như bản năng của nó, trên thịt thối lại đẻ trên hoa cây Xác chết (Arum dracunculus) chỉ vì lầm mùi xác chết của giống hoa này.

Một cuộc phân tích chính xác hơn về bản năng này, hẳn chứng minh đầy đủ cho các quan niệm bảo rằng nền tảng của mọi cuộc tình ái là một bản năng hoàn toàn hướng về cá thể được cấu sinh, và vì thế, ta không thể không làm cuộc phân tích ấy. Vậy trước hết ta phải nói rằng trên phương diện tình ái, bản chất người đàn ông thiên về bất nhất, bản chất người đàn bà thiên về như nhất. Tình yêu của người đàn ông phai lạt trông thấy ngay từ lúc vừa được thỏa mãn; hầu hết những người đàn bà khác thu hút hắn còn hơn là người đàn bà mà hắn đã chiếm được, và hắn mong được thay đổi. Trái lại, tình yêu của người đàn bà lại gia tăng chính từ lúc ấy. Đó là một hậu quả của ý định của thiên nhiên nhắm vào sự lưu tồn, và do đó vào sự gia tăng chủng loại càng nhiều càng hay. Vì người đàn ông có thể cấu sinh trên hàng trăm đứa con một năm, nếu như đi lại với trên hàng trăm người đàn bà; còn người đàn bà dù có đi lại với bao nhiêu người đàn ông chăng nữa, trong một năm cũng chỉ sinh được một đứa con (không kể sinh đôi). Vì thế cho nên người đàn ông khi nào cũng đi tìm những người đàn bà khác, trong khi người đàn bà lại quyến luyến một người đàn ông duy nhất; vì bản chất tự nhiên thúc đẩy mà chả cần phải suy nghĩ họ phải giữ lấy cho họ cái người nuôi dưỡng và bảo vệ cho dòng giống tương lai. Vì vậy, ở người đàn ông, lòng chung thủy có tính chất giả tạo, ở người đàn bà, là lẽ dĩ nhiên, và cũng vì thế tội ngoại tình ở người đàn bà khó tha thứ hơn ở người đàn ông nhiều, cả về phương diện khách quan, vì các hậu quả của nó, cũng như về phương diện chủ quan, vì nó trái với thiên nhiên.

Nhưng để cho được đầy đủ và để hoàn toàn tin chắc rằng cái khoái lạc mà giới kia đưa lại, dù cho có vẻ khách quan cách mấy, chẳng qua cũng chỉ là bản năng trá hình, nghĩa là ý thức chủng loại là bảo tồn tiêu thức của mình, ta cần cứu xét thật kỹ những điều gì đã hướng dẫn ta về cái khoái lạc ấy và bàn rộng hơn về những điều ấy có gì là đặc biệt; mặc dầu rằng trong một triết phẩm mà lại đề cập đến những điều chuyên biệt như thế. Các điều ấy được phân làm nhiều loại: loại liên quan trực tiếp đến tiêu thức loại thuộc, nghĩa là sắc đẹp, loại liên quan đến các đặc tính tâm linh, sau hết loại liên thuần túy tương đối đáp ứng nhu cầu sửa chữa hay trung hòa các khiếm khuyết hay dị trạng của đôi cá nhân giữa nhau. Ta hãy xem xét chúng một cách tường tận hơn.

Điều căn bản chi phối sự lựa chọn và khuynh hướng là tuổi tác. Trên tổng quát, ta nghiên cứu những năm bắt đầu có kinh đến năm tắt kinh, và tất nhiên chú trọng nhất đến thời kì từ mười tám đến hai mươi tám. Ngoài tuổi này, không một người đàn bà nào có thể thu hút chúng ta. Một người đàn bà có tuổi, nghĩa là đã tắt kinh, chỉ còn làm ta ghê tởm. Dù không đẹp, tuổi trẻ khi nào cũng duyên dáng; đẹp mà không còn trẻ cũng hết duyên. - Vì thế cái ý định vô thức hướng dẫn ta hiển nhiên là cái khả năng thụ thai; bởi vậy cho nên người ta mất hết duyên đối với giới kia khi người ta không còn ở vào cái thời kỳ khả dĩ dễ sinh sản và dễ thụ thai. - Điều thứ hai là sức khỏe; các chứng bệnh cấp phát chỉ đưa lại một sự biến đổi nhất thời, các chứng bệnh kinh niên thì lâu hơn, còn các chứng bệnh suy nhược thì làm ghê tởm, - vì chúng di truyền lại đứa bé. - Điều thứ ba là xương cốt, vì nó là căn bản của tiêu thức loại thuộc. Sau tuổi tác và bệnh tật, không gì là ta ghê tởm bằng một thân hình xấu xí; dù diện mạo có đẹp cách mấy cũng không bù lại được khuyết điểm này, và người ta thích thà là có thân hình đẹp thì mặt xấu mấy cũng tạm được đi. Hơn nữa ta rất dễ gai mắt trước một vóc vạc so le, chẳng hạn một thân hình cằn cỗi, loắt choắt, cẳng ngắn ngủn, hay khập khiễng khi không phải vì một tai nan ngoại lai. Trái lại, một thân hình tuyệt mỹ có thể bù lại mọi khuyết điểm, ta bị nó quyến rũ. Thiết tưởng ở đây cũng nên nhắc đến điều là người ta rất chú ý đến đôi chân nhỏ, vì không một con vật nào lại có xương cổ chân với xương bàn chân nhỏ như người, điều có liên quan đến thế đứng thẳng: người là một con vật đi bằng bàn chân. Cho nên trong Kinh thánh có nói: “Một người đàn bà có thân hình cân đối và đôi chân đẹp cũng tựa như đôi cột vàng đặt lên bệ bạc!” Răng cũng quan trọng, vì cần thiết cho sự dinh dưỡng và cấu thể của nó lại đặc biệt di truyền. - Điều thứ tư là da thịt phải đầy đặn đến một mức nào, nghĩa là phải biểu lộ cơ năng dinh dưỡng, phải mềm dẻo; thật vậy, da thịt có thế mới nuôi bào thai được dồi dào, bởi vậy cho nên cái gày đét làm cho ta ghê tởm. Đôi vú nở nang đầy đặn của người đàn bà thu hút nam giới một cách kỳ lạ, vì nó liên quan trực tiếp đến cơ năng sinh sản của người đàn bà, nó hứa hẹn cho hài nhi một sự bú mớm ngon lành. Trái lại, đàn bà phì nộn quá đáng làm ta kinh tởm; nguyên nhân chỉ vì phì nộn là triệu trứng tử cung teo tóp, tức là bất thụ, - điều mà bản năng biết, chứ tri thức không biết. - Mặt đẹp chỉ là điều chót của mấy điều. Ở đây nữa, cái đáng kể trước hết vẫn là những bộ phận xương; cho nên người ta cần trước nhất một cái mũi đẹp: mũi đã ngắn lại xếch là hỏng bét. Sống mũi hơi cong ở trên hay ở dưới từng đưa lại hạnh phúc cho không biết bao nhiêu là thiếu nữ, và đưa lại là đáng, vì đó là điều quan trọng cho tiêu thức loại thuộc. Miệng nhỏ, nhờ hàm nhỏ, là đặc nét thiết yếu cho nhân diện khiến nó khác hẳn mõm thú. Cằm lẹm, có thể nói là không cằm, thì thật ghê tởm; bởi vì cằm dô (mentum pominulum) là đặc tính riêng biệt cho chủng loại chúng ta. Sau hết là vẻ đẹp của mắt và trán; nó liên quan đến các đặc tính tâm linh, và nhất là trí tuệ, và thừa hưởng được ở người mẹ.

Dĩ nhiên ta không thể vạch ra cũng rõ ràng được như thế các điều nhận xét vô thức mà sở thích của người đàn bà noi theo. Đại khái ta chỉ biết rằng: đàn bà thích đàn ông từ ba mươi đến ba mươi lăm, mà họ còn đặc biệt đặt lên trên cả thanh niên, mặc dầu thanh niên thật ra là hình ảnh của cái đẹp hoàn hảo nhất của con người. Lý do là vì họ không phải được điều khiển theo thẩm mỹ, mà theo bản năng nó thừa nhận ở cái tuổi kia là tột độ của năng lực di truyền. Vả lại họ không bận tâm mấy đến sắc đẹp, nhất là sắc đẹp của diện mạo, giống như thể sắc đẹp của đứa con là của riêng phần họ lo liệu. Cái hấp dẫn họ trước hết là sức lực và lòng can đảm đi đôi với sức lực: vì các đặc tính này hứa hẹn cấu sinh những đứa con cường tráng và đồng thời một người bảo vệ dũng cảm cho chúng. Khi thụ thai, người đàn bà có thể hủy bỏ ở đứa trẻ từng khuyết điểm hình thể một của người đàn ông, từng sự chênh lệch một đối với tiêu thức, nhờ ở điều chính họ không có những khuyết điểm ấy, hoặc lại có những khuyết điểm trái ngược. Ngoài khả năng này là những đặc tính riêng biệt của nam giới mà người mẹ do đó không thể truyền cho đứa bé được; chẳng hạn như vóc vạc đàn ông, vai rộng, mông hẹp, chân thẳng, sức mạnh bắp thịt, can đảm, râu ria, v.v... Do đó, đàn bà thường hay yêu những người đàn ông diện mạo xấu xí, nhưng không bao giờ yêu những người đàn ông thiếu các đặc tính hùng dũng; vì họ không thể trung hòa các khiếm khuyết của hạng đàn ông này.

Loại nhận xét thứ hai dùng làm căn bản cho tình yêu là loại liên quan đến các đặc tính tâm linh. Trên quan điểm này, ta nhận thấy rằng đàn bà thường mê đàn ông vì những đức tính tâm hồn và tính tình, những đức tính thừa hưởng được ở người cha. Trước hết, cái quyến rũ người đàn bà là ý chí cương quyết, quyết đoán và can đảm, có lẽ cả lòng ngay thật và lòng nhân từ. Trái lại, các lợi điểm trí tuệ không có hấp lực trực tiếp và bản năng đối với họ, chính vì các lợi điểm này không phải của người cha đưa lại. Gần đàn bà, thiếu thông minh không có hại, mà tài cao trí cả phi thường, hoặc ngay cả thiên tài thường bị họ sẵn sàng ngộ nhận là quái trạng, lại còn gây nhiều bất lợi là đằng khác. Vì vậy mà người ta thường thấy một kẻ xấu xí, ngu đần và thô lỗ, lại có duyên với đàn bà hơn là một người tướng mạo khôi ngô, tài trí và khả ái. Hơn nữa, các cuộc hôn nhân vì tình thường diễn ra giữa những người rất dị biệt về trí tuệ; chẳng hạn người chồng thì cục cằn, vạm vỡ và đần độn, người vợ lại tế nhị, tinh anh, có văn hóa, chuộng đẹp, v.v.., hoặc chàng thì lỗi lạc phi phàm, còn nàng thì khờ dại ngới ngẩn... Sic visum Veneri, cui placet impares Formas atque animos sub juga aenea Saevo mittere cum joco (Vệ nữ nhận định tư thế rồi buông mình say sưa cuồng loạn sống dưới cái ách thép của những hình thể và tâm hồn ô hợp). Nguyên nhân là vì ở đây những quan điểm không phải là trí tuệ đã thắng thế, mà đó là những quan điểm bản năng. Trong cuộc hôn nhân, điều đáng kể chẳng phải là nói hay tán khéo, mà là cấu sinh con cái; hôn nhân là sợi dây ràng buộc các con tim, không phải các khối óc. Khi bảo rằng mình mê một người đàn ông tài trí, người đàn bà đã tự phụ rởm, đã tự dối hão, hoặc đó chỉ là sự bồng bột của một kẻ biến tính. - Trái lại, người đàn ông không yêu theo bản năng dựa vào các tính nết của người đàn bà; vì thế mà biết bao nhiêu Socrate đã gặp phải một bà vợ Xanthippe[10], chẳng hạn Shakespeare, Albert Durer, Byron, v.v... Nhưng ở đây, chính các đặc tính trí tuệ tác động, vì chính tùy thuộc di sản của mẹ; tuy nhiên ảnh hưởng của chúng có phần lùi bước trước ảnh hưởng của sắc đẹp thể xác vốn có liên hệ đến những điểm thiết yếu hơn nên do đó tác động cấp thời hơn. Vì vậy mà các bà mẹ, được thúc đẩy do trực giác hay do kinh nghiệm về ảnh hưởng này, cho con gái học hỏi các ngành mỹ thuật, sinh ngữ, v.v... để thêm phần hấp dẫn trước nhãn quan của đàn ông; họ muốn hỗ trợ trí tuệ bằng những phương tiện giả tạo, cũng như khi cần đến bằng mông bằng vú. - Nên nhớ rằng ở đây chỉ toàn là vấn đề thu hút hoàn toàn cấp thời, hoàn toàn bản năng, phát sinh ra cái tình cảm yêu đương thực thụ. Rằng một người đàn bà khôn ngoan hiểu biết quý chuộng một người đàn ông ở chỗ khôn ngoan hiểu biết, rằng một người đàn ông hay suy nghĩ phải trái để ý nhận xét tính tình của vị hôn thê của mình, cũng chẳng thay đổi gì vấn đề hiện đang bàn đến: các yếu tố này làm căn bản cho một sự lựa chọn phải chăng trong một cuộc hôn nhân, nhưng chẳng phải là căn bản cho tình yêu say đắm vốn là đề tài của chúng ta.

Comments

Popular posts from this blog

Sử dụng gcov để kiểm tra sourcecode

Sau khi hoàn thành source code, trong test phase, có thể chúng ta cần kiểm tra tập test case của chúng ta có coverage tất cả các trường hợp có thể xảy ra hay không, hành động này gọi là test code coverage. Có nhiều tool miễn phí cũng như có phí để thực hiện việc này, nhưng đơn giản nhất là sử dụng công cụ gcov đi kèm trong trình biên dịch gcc. Để đọc chi tiết hơn về gcov, bạn có thể vào http://gcc.gnu.org/onlinedocs/gcc/Gcov.html#Gcov, hoặc tìm kiếm với Google. Sử dụng gcov khá đơn giản, giả sử ta có 3 file a.c, b.c và c.c. Truy cập vào thư mục chứa 3 files này, gõ: gcc -fprofile-arcs -ftest-coverage a.c b.c c.c Mặc định gcc sẽ tạo ra file a.out trong thư mục hiện thời, cùng với 3 file a.gcno, b.gcno và c.gcno. Sau đó bạn chạy file a.out với các parameter cần thiết, sẽ tạo ra thêm 3 file a.gcda, b.gcda và c.gcda. Sau đó, giả sử cần phân tích file b.c, chúng ta gõ: gcov b.c Có hai tham số thường dùng là -b và -f: -b: thêm thông tin về branch trong code. -f: thêm thông tin về hàm. Thông

Getting started with Cryptpad in Ubuntu: step by step

Cryptpad is an open source collaborative editor which is hosted at: https://github.com/cjdelisle/cryptpad It is easy to clone the github repository and start to try, but if you are a newbie, there maybe some difficulties. Suppose that you have a clean Ubuntu machine, and want to try with Cryptpad, you can follow these steps: 1. Download mongodb for Linux: https://www.mongodb.org/downloads 2. Unzip the file you got to a location you want. You will start mongodb from there, or add this directory to your PATH variable so you can start mongodb from anywhere. 3. Suppose that you chose the easier way, i.e start mongodb from its directory. 4. Open Terminal (Ctrl + Alt + T for shortcut), move to the directory of mongodb 5. Type: mkdir db mongod --dbpath=./db These above commands will first, create a directory 'db' insider the directory mongodb, then start mongodb server. 6. Keep the terminal with mongodb server running 7. Open another terminal (Ctrl + Shift +

First post using stackedit

Welcome to StackEdit! Hey! I’m your first Markdown document in StackEdit 1 . Don’t delete me, I’m very helpful! I can be recovered anyway in the Utils tab of the Settings dialog. Documents StackEdit stores your documents in your browser, which means all your documents are automatically saved locally and are accessible offline! Note: StackEdit is accessible offline after the application has been loaded for the first time. Your local documents are not shared between different browsers or computers. Clearing your browser’s data may delete all your local documents! Make sure your documents are synchronized with Google Drive or Dropbox (check out the Synchronization section). Create a document The document panel is accessible using the button in the navigation bar. You can create a new document by clicking New document in the document panel. Switch to another document All your local documents are listed in the document panel. You can switch from one to anoth